Thứ Sáu, 29/3/2024 - 01:43:37 Đường dây nóng: 096 774 2199 Liên hệ quảng cáo: (024) 6282 2201 Cơ quan: (024) 6282 2176 Email: kiemtoandientu@sav.gov.vn

Cơ hội nào cho ngành dệt may, da giày sau đại dịch COVID-19?

THỨ SÁU, 11/12/2020 15:50:00 | KINH DOANH
(BKTO) - Trong bối cảnh khó khăn do COVID-19, ngành dệt may và da giày Việt Nam vẫn đạt được sản lượng xuất khẩu cao, khả năng liên kết tốt hơn, tạo cơ hội cho ngành có bước "nhảy vọt" trong các năm tới.


Sản xuất các sản phẩm may mặc xuất khẩu tại Công ty Cổ phần may và dịch vụ Hưng Long (Thị xã Mỹ Hào). (Ảnh: Phạm Kiên/TTXVN)

Sáng 11/12, tại Hà Nội, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) đã tổ chức Hội thảo quốc tế ngành dệt may-da giày Việt Nam tổng kết một năm sau COVID-19 và phát triển bền vững.

Tại hội thảo, nhiều doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, trong bối cảnh khó khăn chung do dịch COVID-19, ngành dệt may và da giày Việt Nam vẫn đạt được sản lượng xuất khẩu cao, khả năng liên kết đã tốt hơn. Điều này sẽ tạo cơ hội cho ngành dệt may, da giày có bước "nhảy vọt" trong những năm tới.

Liên kết chặt chẽ

Bà Đỗ Quỳnh Chi, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động, cho biết dịch COVID-19 cũng tác động mạnh tới doanh nghiệp dệt may và giày dép, có tới hơn 94% doanh nghiệp da giày, hơn 87% doanh nghiệp dệt may bị giảm đơn hàng, 84,5% doanh nghiệp da giày, 53,5% doanh nghiệp dệt may bị khách hoãn hủy đơn và gần 75% doanh nghiệp da giày, gần 23% doanh nghiệp dệt may không xuất khẩu được.

Trước những tác động của dịch COVID-19, nhiều doanh nghiệp đã thay đổi chiến lược về phát triển sản phẩm và tìm khách hàng mới.

“Xu hướng ngắn hạn và trung hạn là đa dạng hóa khách hàng, thị trường và sản phẩm là cứu cánh cho các doanh nghiệp dệt may duy trì sản xuất. Còn doanh nghiệp da giày xu hướng giảm gia công, đa dạng hóa khách hàng. Còn dài hạn là xu hướng công nghệ xanh mạnh mẽ và tiếp tục tự động hóa," bà Chi cho biết.

Một điểm đặc biệt mà khảo sát doanh nghiệp được bà Chi chỉ ra là dịch COVID-19 đã khiến cho các doanh nghiệp tăng mạnh nhu cầu liên kết với các doanh nghiệp khác tại Việt Nam.

Cụ thể, nhu cầu liên kết giữa các doanh nghiệp trong dịch COVID-19 gồm mua bán nguyên vật liệu trong nước để thay thế nguồn cung nhập khẩu bị gián đoạn hoặc có giá thành cao hơn; chia sẻ đơn hàng, đặc biệt giữa các công ty lớn và các công ty vừa và nhỏ; học hỏi kinh nghiệm của nhau như công nghệ, máy móc, thực hiện các tiêu chuẩn môi trường như xử lý nước thải, dùng năng lượng Mặt Trời... và các vấn đề khác.

Cũng theo ông Vũ Đức Giang, ngoài động lực từ dịch COVID-19, việc phải đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc xuất xứ cũng đang thúc đẩy các nhà máy và cả nhãn hàng tăng cường mua bán nguyên vật liệu trong nước.

Công ty Sợi Phú Bài đã thúc đẩy việc bán sợi cho nhiều doanh nghiệp FDI trong nước trong thời gian dịch. Nhiều nhà máy may cho biết, họ đã và đang thuyết phục nhãn hàng sử dụng vải và nguyên phụ liệu trong nước thay vì nhập khẩu hoàn toàn như trước đây để tận dụng được ưu đãi thuế quan qua hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA).

Khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu Quan hệ lao động cho thấy, 46,6% doanh nghiệp đã thực hiện việc liên kết với doanh nghiệp khác và 39,5% dự định thực hiện việc liên kết trong thời gian từ 1-3 năm tới.

Tuy nhiên, hiện nay, các doanh nghiệp đa phần thiếu các kênh thông tin và cơ chế hỗ trợ để liên kết. Chẳng hạn, hiện chưa có một cổng thông tin toàn diện về ngành dệt may và giày dép, túi xách ở Việt Nam để cho phép các doanh nghiệp có thể tìm kiếm các đối tác hợp tác hiệu quả. Do đó, đa phần là "tự thân vận động" bằng cách tìm hiểu qua truyền miệng hoặc quan hệ cá nhân.

Theo ông Nguyễn Văn Thời, Chủ tịch Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại TNG, khi dịch COVID-19 xảy ra, việc đứt gãy nguyên phụ liệu từ nước ngoài khiến doanh nghiệp gặp khó, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn cung từ các nhà cung ứng trong nước. Chính dịch COVID-19 đã kéo doanh nghiệp trong nước “lại gần” nhau hơn, kết nối tốt hơn.

Có thể sớm phục hồi

Theo thông tin được Vitas đưa ra, nhu cầu của châu Âu và Hoa Kỳ trong năm 2020 giảm lần lượt là 45% và 40% với hàng may mặc, giảm 27% và 21% với giày dép. Cho tới thời điểm quý 4/2020, đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp tại Hoa Kỳ và châu Âu, khiến cho thời điểm hồi phục của ngành thời trang về mức trước khi đại dịch được dự đoán là cuối năm 2022, đầu năm 2023.
 
Sản xuất giày xuất khẩu. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
 
Mặc dù vậy, hai ngành dệt may và da giày Việt Nam cũng có nhiều cơ hội trong bối cảnh thương mại toàn cầu thay đổi. Trung Quốc không chỉ giảm tổng lượng xuất khẩu lên tới 50% với một số mặt hàng mà mức giá cũng giảm sâu nhất là 20%. Hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là mặt hàng khó may, có giá trị cao và nhờ vậy vẫn giữ giá, mở rộng thị phần tại thị trường Hoa Kỳ. Vào tháng 6/2020, Việt Nam đã trở thành nhà xuất khẩu lớn nhất hàng may mặc vào Hoa Kỳ, vị trí mà Trung Quốc chiếm giữ nhiều năm nay.

Ở thị trường châu Âu, hiện tại Việt Nam mới chiếm khoảng 3% thị phần. các mặt hàng này. Với hiệp định EVFTA có hiệu lực ngày 1/8/2020, dự báo xuất khẩu giày sẽ tăng 50% và dệt may tăng 67% vào 2025. Các doanh nghiệp đã bắt đầu một số điều chỉnh mang tính chiến lược trong thời gian từ 1-3 năm tới. Cùng với đó, có tới gần 56% doanh nghiệp dự định thúc đẩy tự động hóa, gần 50% sẽ phát triển sản phẩm mới, xấp xỉ 40% sẽ đa dạng hơn nữa sản phẩm và hơn 41% sẽ đầu tư nâng cao kỹ năng lao động.

Ông Nguyễn Văn Thời, Chủ tịch TNG cho hay, nhu cầu thế giới có sụt giảm trong năm tới, nhưng sẽ không nhiều lắm. Quan trọng là có cạnh tranh được với các nước như Ấn Độ, Trung Quốc... hay không.

“Chúng tôi hoàn toàn có đủ tự tin, về nguyên liệu, công ty đã làm với các nhãn hàng lớn, đã ký đơn hàng đến tháng 6/2021 rồi, đặt tiền mua nguyên liệu từ các nhà cung cấp. Về cơ bản, những doanh nghiệp lớn, có công nghệ, quản trị sẽ không gặp nhiều khó khăn. Năm 2021 vẫn sẽ chưa hết khó, nhưng 2022-2023 sẽ bật lên rất mạnh."

Cũng theo chia sẻ của ông Vũ Đức Giang, có tới gần một nửa nhãn hàng thời trang cho biết sẽ tăng mua từ Việt Nam sau dịch COVID-19. Một phần do chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng và một phần do các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam vừa tham gia. Số còn lại cân nhắc về việc thiếu nguyên phụ liệu khiến các nhãn hàng từ châu Âu và khối Hiệp định CPTPP không được hưởng ưu đãi thuế qua Hiệp định EVFTA và CPTPP.

"Chúng ta sẽ vượt khó 2021, 2022, thậm chí 2023; đến cuối quý 3/2023 nếu dịch COVID-19 kiểm soát được thì sẽ về trạng thái bình thường của năm 2019. Các hiệp định thương mại tự do đang có kết cấu thị trường tương đối tốt. Để kéo đơn hàng, cộng đồng doanh nghiệp phải xây dựng liên kết chuỗi chặt chẽ, chia sẻ thông tin, giải pháp công nghệ, quản trị, đặc biệt là chia sẻ về những đơn hàng trong bối cảnh COVID-19. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp gặp khó nhưng nhiều doanh nghiệp nhận đơn hàng rất lớn. Hiệp hội đã tốt việc kết nối và san sẻ đơn hàng...," ông Giang bày tỏ./.
 
Theo vietnamplus.vn

Bình Luận

Vui lòng nhập nội dung bình luận.

Tin cùng chuyên mục

Tích cực phối hợp tháo gỡ khó khăn, vấn đề tồn đọng tại dự án TISCO2

Tích cực phối hợp tháo gỡ khó khăn, vấn đề tồn đọng tại dự án TISCO2

(BKTO) - Ngày 27/10, tại Hà Nội, Chủ tịch Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLVNN) Nguyễn Hoàng Anh đã tiếp ông Yang Ruo Bing - Chủ tịch HĐQT Công ty Công trình Luyện kim quốc tế (MCCI), trực thuộc Tập đoàn Khoa học công nghệ và Thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC).

Tin mới

  • Đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên mặt trận tư tưởng

    Đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên mặt trận tư tưởng

    (BKTO) - Nhận diễn rõ các phương thức chống phá chủ yếu của các thế lực thù địch trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là sự chống phá trên mặt trận tư tưởng có ý nghĩa quan trọng để Việt Nam xây dựng các giải pháp phòng chống DBHB một cách toàn diện, hiệu quả.

     1 năm trước

Sự Kiện nổi bật

Chuyên đề

 Thời tiết
Các ấn phẩm Báo Kiểm toán

Liên hệ đặt báo: (024) 6282 2201